Thứ Hai, 14 tháng 5, 2012

Thực Chất Cuộc Can Thiệp Của Mỹ Vào Việt Nam.


 Trần Chung Ngọc
Trong cuốn Chiến Tranh Việt Nam Và Văn Hóa Mỹ(The Vietnam War and American Culture, Columbia University Press, New York, 1991, John Carlos Rowe and Rick Berg: Editors), trang 52-72, có bài “Sự Vắng Mặt Kẻ Thù Của Mỹ [Nghĩa là không cần biết đến quan điểm của người dân VN] Trong Lịch Sử Chiến Tranh Việt Nam Viết Bởi Trường Phái Xét Lại” [America’s “Enemy”: The Absent Presence in Revisionist Vietnam War History]  của Stephen Vlastos, Giáo sư Sử, đại học Iowa, viết về cuộc chiến ở Việt Nam qua 4 chủ đề: Nguyên nhân cuộc chiến, Hiệp định Genève, Phong trào kháng chiến ở miền Nam Việt Nam, và Cuộc chiến bại của Mỹ.   Theo tôi, đây là một bài phân tích khá chính xác tuy không đầy đủ vì thật ra rất khó mà viết được đầy đủ về cuộc chiến ở Việt Nam.  Chúng ta có thể đọc được đoạn sau đây, và chúng ta sẽ thấy rằng tất cả chính trị tạo nên cảnh đối nghịch Quốc-Cộng ở Việt Nam đã được dàn dựng ngay từ hồi Pháp trở lại Việt Nam, và sau bởi Mỹ để đạt được những mục đích thầm kín của Mỹ.  Giáo sư Stephen Vlastos viết:
Ngay từ 1947, Pháp với những khó khăn của cuộc chiến, đã tìm giải pháp “quốc gia” để chống những lời kêu gọi lòng ái quốc của Việt Minh (nghĩa là dùng người Việt chống người Việt dưới chiêu bài Quốc Gia chống Cộng sản), và đã kiếm được một người sẵn sàng hợp tác: Cựu Hoàng Bảo Đại (đã thoái vị và được Hồ Chí Minh mời làm Cố Vấn).  Vào tháng 3, 1949, Bảo Đại ký thỏa hiệp về một nước Việt Nam độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, thỏa hiệp được quốc hội Pháp thông qua vào đầu năm 1950.  Về phương diện Hiến Pháp, chính quyền Bảo Đại không có chủ quyền, về phương diện cá nhân, ông ta thiếu tính hợp pháp chính đáng[Constitutionally, Bao Dai’s government lacked sovereign powers; personally, he lacked legitimacy].  Tuy nhiên, ngay lập tức, Mỹ đã công nhận ngoại giao với Bảo Đại, và điều này cũng đủ để thiết lập tính cách hợp pháp của chính quyền Bảo Đại – ngay cả khi chính quyền này bị bác bỏ bởi hầu hết ngưởi Việt Nam [U.S. recognition suffices to establish the legality of Bao Dai’s government – even though spurned by most Vietnamese] và theo cùng một lôgíc thì Sô Viết và Trung Quốc công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa mấy năm sau có nghĩa là bất hợp pháp dù đã được quảng đại quần chúng ủng hộ.
Làm mù mờ những vai trò lịch sử của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Mỹ trong giai đoạn đầu cuộc chiến của Việt Nam giành độc lập [cuộc chiến chống Pháp trở lại Đông Dương với sự ủng hộ vật chất của Mỹ], chiến lược đầu củng cố bởi chiến lược thứ hai: đưa ra tràn ngập hình ảnh là Việt Nam nằm trong cuộc bành trướng của Cộng sản trên thế giới với những tài liệu như “Sựsụp đổ của Trung Hoa quốc gia”, “Quân đội Trung Quốc tập trung ở biên giới Hoa Việt”,  “Nga Sô Viết và Trung Hoa Cộng Sản công nhận Việt Minh”, “Chính quyền Mao cung cấp nơi trú ẩn và viện trợ cho Việt Minh”, và “Cam kết của Việt Minh về tổ chức và lý tưởng Cộng sản”.Lẽ dĩ nhiên, tất cả những tài liệu này nhằm nuôi dưỡng một ảo tưởng là một quốc gia “tự do” [Nam Việt Nam]  bị đe dọa bởi sự xâm lăng của Cộng Sản từ bên ngoài – và đó là sự xoay sở đạo đức của cuộc chiến tranh lạnh để biện minh cho sự can thiệp quân sự của Mỹ.
Những luận điệu quen thuộc như:  Mỹ phải ủng hộ “chính quyền hợp pháp” [bất hợp pháp trên thực tế. TCN] hoặc phải đối diện với sự bành trướng của Cộng Sản khắp miền Đông Nam Á, và có thể lan đến lãnh thổ của chúng ta..  Điểm khẳng định ở đây là, Việt Nam đã có một chính quyền quốc gia hợp pháp và bị tấn công bởi “chế độ” Cộng sản Hồ Chí Minh, do đó sự can thiệp của Mỹ là hành động công chính về đạo đức. [Xin đọc Noam Chomsky:  Mỹ chưa bao giờ coi chính quyền ở Nam Việt Nam là hợp pháp].  Nếu chính quyền Truman phản ứng trước sự xâm lăng chống chính quyền hợp pháp ở Việt Nam, thì cuộc chiến Việt Nam có thể coi như một cuộc chiến với ý tốt, giống như Đệ Nhị Thế Chiến [The Vienam war can be equated with the “good war”, World War II.]
   Ngày nay, ai cũng biết, khoan nói đến tư cách cá nhân của Bảo Đại, chính phủ Bảo Đại chỉ là một chính phủ bù nhìn, quân đội quốc gia thì nằm dưới quyền chỉ huy của Pháp. Hiệp định Genève được ký giữa Pháp và Việt Minh, Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa về và được Bảo Đại bù nhìn cho làm Thủ Tướng, thực tế cũng là bù nhìn.  William Prochnau viết trong cuốn “Once Upon a Distant War: Reporting from Vietnam”, Mainstream Publishing, London,  1996, trang 15, về Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm sau Hiệp Định Geneva:
   “Hồ Chí Minh, một anh hùng dân tộc đã lãnh đạo cuộc cách mạng chống thuộc địa, cầm quyền ở ngoài Bắc.  Miền Nam gặp nhiều khó khăn để kiếm ra được một lãnh tụ xứng đáng.  Nhưng vào cuối 1954, Ngô Đình Diệm, một khuôn mặt tu hành ít người biết và thường khó hiểu đã lưu vong ở Paris và Mỹ trong cuộc kháng chiến, lên cầm quyền ở Saigon. Diệm là người chống Cộng đáng tin cậy và Mỹ vội vã bưng về.  Vị lãnh tụ mới này về sau được biết là “Quan lại của Mỹ”,  “Bù Nhìn Không Có Giây Giật
(Ho Chi Minh, a national hero who had led the anti-colonialist revolution, took over North Vietnam.  The South had more trouble finding a natural leader.  But by late 1954 Ngo Dinh Diem, an obscure and often puzzling ascetic who had gone exile in Paris and the United States during the war, took control in Saigon.  Diem was staunchly anti-communist and the United States bought in quickly. The new leader became known as America’s Mandarin, her Puppet Without Strings.) 
   Đọc những sách viết về VIệt Nam trong và sau cuộc chiến, chúng ta có thể thấy rõ là hơn 90% các tác giả có cùng những nhận định về Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm tương tự như trên, nếu không muốn nói là còn tệ hơn nhiều về Ngô Đình Diệm.  Sự thực lịch sử cho thấy ông Hồ được ít ra là đại đa số người dân chấp nhận cương vị Chủ Tịch nước, còn ông Diệm thì được Mỹ bưng về và Lansdale phải thuê một số người đi đón.  Ông Diệm được những người Công giáo cuồng tín như Hồng Y Spellman và ngoại trưởng John Foster Dulles vận động đưa về, và vì khi đó trong tình trạng cấp bách, không có ai nên Mỹ đã chọn nhầm người.  Chúng ta còn nhớ, khi Tổng Thống Johnson được hỏi có phải thực sự ông ta cho rằng ông Diệm là Churchill ở Á Châu, thì Johnson đã trả lời: “Shit!  He’s the only boy we got there”, nghĩa là “Cục cứt ! Hắn chỉ là thằng nhóc mà chúng ta có được ở đó”.  Và các phân tích lịch sử về sau đều cho rằng, Diệm chính là mầm mống làm suy sụp miền Nam vì chính sách chống Cộng và độc tôn tôn giáo ngu xuẩn của hắn ở miền Nam.
   Giải pháp Quốc Gia của Pháp chỉ là mánh khóe vận động những người không Cộng sản để tạo nên ấn tượng là những nỗ lực tái lập thuộc địa của Pháp chỉ là cuộc thánh chiến chống Cộng (Boettcher,  The Valor and the Sorrow, p. 80: The French merely manipulated non-communists to create the impression that their recolonizing efforts were an anti-communist crusade), và điều này rất hợp với khẩu vị của những người Công giáo Việt Nam.  Và những luận điệu tuyên truyền của Mỹ như Mỹ phải ủng hộ “chính quyền hợp pháp” Nam Việt Nam, bị tấn công bởi “chế độ” Cộng sản Hồ Chí Minh v…v… ở trên là những lý do dùng để biện minh cho cuộc can thiệp của Mỹ vào Việt Nam, kết quả là chúng ta đã bị kéo vào cuộc tranh chấp đẫm máu giữa Quốc Gia và Cộng sản để rồi cái định kiến phân biệt trở thành thù nghịch Quốc-Cộng này cộng với ảnh hưởng tác hại của cuộc chiến trong nhiều năm với những tổn thất to lớn về vật chất cũng như về con người trên đất nước đã ăn sâu vào tiềm thức chúng ta đến độ ngày nay mà chúng ta vẫn còn ngu ngơ đưa ra những luận điệu không thể biện minh được để chống Cộng.  Nhưng giáo sư Mortimer Cohen cho rằng tất cả những lý do đó đều vô giá trị. Giáo sưMortimer T. Cohen viết trong cuốn From Prologue To Epilogue In Vietnam, Publisher Retriever Bookshop, N.Y.,1979, trang 208:
"Trong 21 năm bị lôi cuốn  vào Đông Dương, Chính Phủ Mỹ đã đưa ra những “lý do” về những hành động của mình.  Những lý do này vô giá trị.  Lý do duy nhất mà Mỹ vào Đông Dương là để ngăn chận vùng này khỏi rơi vào tay Cộng Sản bằng một cuộc bầu cử, một cuộc cách mạng nội bộ...  Và đó cũng đủ là lý do.
   Thêm nhiều lý do.  Và thêm nhiều lý do nữa.  Chúng mọc lên như măng tháng 5.  Trước khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt, những lý do có thể chứa đầy một cuốn sách.  Không lý do nào hợp lý.”
(During the course of its 21 years of involvement in Indochina, the United States Government offfered “reasons” for its actions.  These reasons were worthless.  The only reason for the American being in Indochina was to prevent the area from going Communist by an election, by an internal revolution... And this was reason enough...
More reasons.  And more reasons.  They sprouted like asparagus in May.  Before the Indochina War came to an end, a book could have filled with reasons.  None of them were valid.)
Tại sao, những lý do đó lại vô giá trị?  Vì bản chất sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam là một cuộc xâm lăng, quân sự cũng như văn hóa.  Vài tài liệu sau đây sẽ chứng minh điều này.
Có lẽ không có gì rõ ràng hơn là đoạn sau đây của Daniel Ellsberg trong cuốn Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers, Viking, 2002, p.255:
   
Daniel Ellsberg
Không làm gì có chiến tranh Đông Dương thứ nhất và thứ nhì, chỉ có một cuộc xung đột nối tiếp trong một phần tư thế kỷ..
Dùng ngôn từ thực tế, đứng về một phía (Mỹ), ngay từ đầu nó đã là một cuộc chiến của Mỹ: mới đầu là Pháp-Mỹ, sau đến toàn là Mỹ.  Trong cả hai trường hợp, nó là một cuộc đấu tranh của người Việt Nam – không phải là tất cả người Việt Nam nhưng cũng đủ để duy trì cuộc đấu tranh – chống chính sách của Mỹ và  những kinh viện, ủy nhiệm, kỹ thuật gia, hỏa lực, và cuối cùng, quân đội và phi công, của Mỹ.
Cuộc chiến đó không có gì là “nội chiến”, sau 1956 hay 1960, như nó đã không từng là nội chiến trong cuộc tái chiếm thuộc địa của Pháp được Mỹ ủng hộ. Một cuộc chiến mà trong đó một phía hoàn toàn được trang bị và trả lương bởi một quyền lực ngoại quốc – một quyền lực nắm quyền quyết định về bản chất của chế độ địa phương vì những quyền lợi của mình – thì không phải là một cuộc nội chiến.
   Bảo rằng chúng ta “xía vào” cái gọi là “đích thực là một cuộc nội chiến”, như hầu hết các tác giả Mỹ, và ngay cả những người có khuynh hướng tự do chỉ trích cuộc chiến cho rằng như vậy cho đến ngày nay, đơn giản chỉ là che dấu một sự thực đau lòng hơn, và cũng chỉ  là một huyền thoại như là luận điệu chính thức về một “cuộc xâm lăng từ miền Bắc”.
   Theo tinh thần Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm,  sự xâm lăng của Mỹ.
(There had been no First and Second Indochina Wars, just one continuous conflict for almost a quarter of century.
In practical terms, on one side, it had been an American war almost from its beginning: at first French-American, eventually wholly American.  In both cases it was a struggle of Vietnamese – not all of them but enough to persist – against American policy and American financing, proxies, technicians, firepower, and finally, troops and pilots.
It was no more a “civil war” after 1955 or 1960 than it had been during the US-supported French at colonial reconquest.  A war in which one side was entirely equipped and paid by a foreign power – which dictated the nature of the local regime in its own interest – was not a civil war.  To say that we had “interfered” in what is “really a civil war”, as most American writers and even liberal critics of the war  do to this day, simply screened a more painful reality and was as much a myth as the earlier official one of “agression from the North”.  In terms of the UN Charter and our own avowed ideals, it was a war of foreign agression, American aggression.]
Tại sao Daniel Ellsberg lại có thể viết như vậy. Không phải vì Ellsberg phản chiến mà vì Ellsberg là viên chức trong chính quyền Mỹ, đã từng đọc được những tài liệu mật nhất của Mỹ và biết rõ nhất về thực chất cuộc chiến ở Việt Nam.  Chính ông là người đã tiết lộ Tài Liệu Ngũ Giác Đài.  Và ông viết đoạn trên năm 2002 chứ không phải là trong thời kỳ “phản chiến” sôi nổi trên đất Mỹ.  Nếu chúng ta đã đọc một số những sách viết về cuộc chiến Việt Nam, viết sau 1975, của các học giả và cựu quân nhân Mỹ, thì chúng ta sẽ thấy rằng đa số đồng ý với Daniel Ellsberg về điểm này.
   Sau đây là một tài liệu khác về bản chất của cuộc chiến ở Việt Nam cách đây trên 30 năm.  Trong cuốn Chiến Tranh Việt Nam Và Văn Hóa Mỹ (The Vietnam War and American Culture, Columbia University Press, New York, 1991), John Carlos Rowe and Rick Berg viết, trang 28-29:
Cho tới năm 1982 – sau nhiều năm tuyên truyền liên tục mà hầu như không có tiếng nói chống đối nào được phép đến với đại chúng – trên 70% dân chúng vẫn coi cuộc chiến (ở Việt Nam) “căn bản là sai lầm và phi đạo đức”, chứ không chỉ là “một lỗi lầm.”
   Tưởng cũng nên nhớ lại vài sự kiện.  Mỹ đã dính sâu vào nỗ lực của Pháp để tái chiếm thuộc địa cũ của họ, biết rằng kẻ thù là phong trào quốc gia của Việt Nam.  Số tử vong vào khoảng nửa triệu.  Khi Pháp rút lui, Mỹ lập tức hiến thân vào việc phá hoại Hiệp Định Genève năm 1954dựng lên ở miền Nam một chế độ khủng bố, cho đến năm 1961, giết có lẽ khoảng 70000 “Việt Cộng”, gây nên phong trào kháng chiến mà từ 1959 được sự ủng hộ của nửa miền Bắc tạm thời chia đôi bởi Hiệp Định Genève mà Mỹ phá ngầm. 
   Trong những năm 1961-62, Tổng thống Kennedy phát động cuộc tấn công thẳng vào vùng quê Nam Việt Nam với những cuộc thả bom trải rộng, thuốc khai quang trong một chương trình được thiết kế để lùa hàng triệu người dân vào những trại (ấp chiến lược?) nơi đây họ được bảo vệ bởi những lính gác, giây thép gai, khỏi quân du kích mà Mỹ thừa nhận rằng được dân ủng hộ.
    Mỹ khẳng định là đã được mời đến, nhưng như tờ London Economist đã nhận định chính xác, “một kẻ xâm lăng là một kẻ xâm lăng trừ phi được mời bởi một chính phủ hợp pháp.”  Mỹ chưa bao giờ coi những tay sai mình dựng lên là có quyền hợp pháp như vậy, và thật ra Mỹ thường thay đổi những chính phủ này khi họ không có đủ thích thú trước sự tấn công của Mỹ hay tìm kiếm một sự dàn xếp trung lập được mọi phía ủng hộ nhưng bị coi là nguy hiểm cho những kẻ xâm lăng, vì như vậy là phá ngầm căn bản cuộc chiến của Mỹ chống Nam Việt Nam.  Nói ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ đã tiến tới việc làm ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội ác khủng khiếp chống nhân lọại trên khắp Đông Dương.
(As late as 1982 – after years of unremitting propaganda with virtually no dissenting voice permitted expression to a large audience – over 70% of the general population (but far fewer “opinion leaders”) still regarded the war as “fundamentally wrong and immoral,’ not merely “a mistake”..
It is worth recalling a few facts.  The US was deeply committed to the French effort to reconquer their former colony, recognizing throughout that the enemy was the nationalist movement of Vietnam.  The death toll was about half a million.  When France withdrew, the US dedicated itself at once to subverting the 1954 Geneva settlement, installing in the south a terrorist regime that killed perhaps 70000 “Viet Cong” by 1961, evoking resistance which, from 1959, was supported from the northern half of the country temporarily divided by the Geneva settlement that the US had undermined. 
In 1961-1962, President Kennedy launched a direct attack against rural South Vietnam with large-scale bombing and defoliation as part of a program designed to drive millions of people to camps where they would be “protected” by armed guards and barbed wire from the guerillas whom, the US conceded, they were willinggly supporting.  The US maintained that it was invited in, but as the  London Economist accurately observed, “an invader is an invader unless invited in by a government with a claim to legitimacy.”  The US never regarded the clients it installed as having any such claim, and in fact it regularly replaced them when they failed to exhibit sufficient enthusiam for the American attack or sought to implement the neutralist settlement that was advocated on all sides and was considered the prime danger by the aggressors, since it would undermine the basis for their war against South Vietnam.  In short, the US invaded South Vietnam, where it proceeded to compound the crime of aggression with numerous and quite appalling crimes against humanity throughout Indochina.)
Nhưng thật ra có phải Mỹ can thiệp vào Việt Nam để chống Cộng cho Nam Việt Nam hay không?  Một câu hỏi được đặt ra là “Tại sao lại là Việt Nam” trong khi Mỹ có Cộng sản ngay sát nách (Cuba) và thường thỏa hiệp với CS ở các nơi khác, như tài liệu sau đây chứng tỏ:
Mục Sư Tin Lành Robert McAfee Brown, Giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Stanford, viết trong cuốn Việt Nam: Sự Khủng Khoảng của Lương Tri  (Vietnam: Crisis of Conscience, Association Press, N.Y., 1967), trang 79:
Thật là khôi hài, ngay khi mà chúng ta nói rằng chúng ta phải “chặn đứng Cộng Sản” ở Việt Nam, thì ở những nơi khác chúng ta lại sống chung với Cộng Sản, soạn thảo những hiệp ước với Nga Sô, mở rộng giao thương với Đông Âu, ủng hộ Tito ở Nam Tư.  Ở những nơi khác, chúng ta rõ ràng quyết định là sống chung hòa bình với Cộng Sản, và khuyến khích những xã hội Cộng Sản độc lập, không cần đến sự liên kết với nhau trong khối Cộng sản.
(It is ironic that at precisely the moment we are saying that we must “halt communism” in Vietnam, we are coming to terms with it elsewhere, working out new treaty agreements with Russia, extending trade in Eastern Europe, giving support to Tito in Yougoslavia.  Elsewhere, we have clearly decide to coexist with communism, and to encourage independent Communist societies that will be increasingly free of the need for alliance with one another.)
Mục sư Brown nhận định không sai.  Ngày 4 tháng 11, 1956, xe tăng Nga tiến vào Budapest, thủ đô Hung Gia Lợi, một sự xâm lăng trắng trợn để dẹp một chính quyền Cộng Sản ngỏ ý cho dân được bầu cử tự do.  Mỹ chỉ can thiệp bằng miệng, dùng đài phát thanh VOA khuyến khích dân Hung chống trả, hứa suông là sẽ đem quân vào can thiệp, rồi án binh bất động.  Việt Nam không có quân xâm lăng từ ngoài vào.  Vậy tại sao lại là Việt Nam?  Sau đây là vài yếu tố khác dùng để giải thích thực chất cuộc can thiệp của Mỹ vào Việt Nam.
Mỹ can thiệp vào Việt Nam vì những mục đích khác của Mỹ chứ không phải là 100% để giúp Việt Nam chống Cộng hay xây dựng một xã hội tự do, dân chủ, ngay cả theo quan niệm của Mỹ.  Trong cuốn The Vietnam War and American Culture của John Carlos Rowe & Rick Berg, Columbia University Press, 1991, trang 72, chúng ta có thể đọc đoạn sau đây:
Dù với những lời tuyên bố đầy thiện ý về bảo vệ “tự do” của người dân Việt Nam, trong những tài liệu nội bộ, thực tế tàn nhẫn về mục đích chiến tranh của Mỹ đã được vạch rõ – không gì ngắn gọn hơn là trong một bản ghi nhớ của Thứ Trưởng Quốc Phòng John McNaughton, viết thay cho Bộ Trưởng McNamara (với một bản sao chỉ để cho George Bundy đọc) về những mục đích chiến tranh của Mỹ:  70%  để duy trì danh dự quốc gia của chúng ta; 20% để cho Nam Việt Nam khỏi bị Trung Quốc chiếm đóng; và 10% để cho người dân Việt Nam được hưởng một lối sống tốt hơn và tự do hơn.
(Despite pious pronouncements about protecting the “freedom” of the people of South Vietnam, in internal documents the harsh realities of US War aims were spelled out – none more succinctly than a memorandum prepared by Assistant Secretary of Defense for Secretary McNamara (with an eyes-only copy to George Bundy) on US War aims:  70% aimed “to avoid a humiliating US defeat”, to preserve our national honor; 20% to keep South VN territory from being occupied by the Chinese; and 10% to the South VN to enjoy a better and freer way of life)
Chúng ta có thể thấy một đoạn tương tự trong cuốn Cuộc Chiến Bất Tận: Cuộc Đấu Thanh Của Việt Nam Để Giành Độc Lập (The Endless War: Vietnam.s Struggle For Independence, Columbia University Press, New York, 1989) Giáo Sư James P. Harisson viết, trang 4:
“Ngày 24 tháng 3, 1965, Thứ Trưởng Quốc Phòng John T. McNaughton tuyên bố là trong khi thực ra chỉ có 10%  nỗ lực của Mỹ để giúp người dân Nam Việt Nam, 20% có mục đích giữ Nam VN (và những lãnh thổ lân cận) khỏi rơi vào tay Trung Quốc, và phần lớn nhất, 70%, là để “tránh một cuộc thất bại nhục nhã của Mỹ.”
(On March 24, 1965, Assistant Secretary for Defense John T. McNaughton stated that whereas in effect only 10% of US efforts aimed to help Vietnamese people, 20% aimed “to keep South VN (and adjacent territory) from Chinese hands”, and the greatest part, or 70%, aimed “to avoid a humiliating US defeat”).
Viết về sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam, chúng ta không thể bỏ qua yếu tố kinh tế. Phải chăng những lý do Mỹ đưa ra về sự can thiệp vào Việt Nam chỉ là, như Tướng Telford TayLor, cố vấn trưởng của Mỹ tại Tòa Án Nuremberg để xử các tội phạm chiến tranh Đức quốc Xã (Chief counsel for the prosecution, with the rank of Brigadier General, at the Nuremberg war-crimes trials), đã viết trong cuốn:Nuremberg Và Việt Nam: Một Tấn Thảm Kịch Của Mỹ (Nuremberg and Vietnam: An American Tragedy, New York Times Book, 1970, trang 103):  che dấu ý định khai thác Nam Việt Nam như là một căn cứ quân sự Mỹ để “ngăn chặn” Cộng Sản, hay thống trị Đông Nam Á và những tài nguyên thiên nhiên khổng lồ ở đó [only to conceal the intention to exploit South Vietnam as an American military base to “contain” Communism, or to dominate Southeast Asia and its enormous natural resources].
Trong cuốn Turning Points in World History: The Vietnam War, yếu tố kinh tế cũng được nói tới ở trang 50:
Trong ngôn từ chiến lược và kinh tế, Đông Nam Á cũng là vấn đề quan trọng đối với quyền lợi của Mỹ.  Đông Nam Á rơi vào tay Cộng Sản sẽ đe dọa chuỗi đảo trải dài từ Nhật tới Phi Luật Tân, cắt đường hàng không của Mỹ tới Ấn Độ và Nam Á và dẹp bỏ phòng tuyến phòng vệ đầu ỡ Thái Bình Dương.  Úc và Tân Tây Lan (New Zealand) sẽ bị cô lập.  Vùng (Đông Nam Á) có nhiều tài nguyên thiên nhiên và chiến lược, gồm có thiếc, cao su, gạo, nguồn dầu dừa, quặng sắt, đồng, tungsten, và dầu hỏa. Mỹ không chỉ bị cắt đứt, không tơ hào gì được những nguồn tài nguyên đó, mà tiềm năng về những thị trường to lớn để tiêu thụ những sản phẩm của Mỹ cũng bị đe dọa.
(In strategic and economic terms, Southeast Asia was also critical to American interests.  The fall of Southeast Asia would threaten the island chain stretching from Japan to Philippines, cutting off American air routes to India and South Asia and eliminating the first line of defense in the Pacific.  Australia and New Zealand would be isolated.  The region was loaded with important natural and strategic resources, including tin, rubber, rice, copra, iron core, copper, tungsten, and oil.  Not only would be the US be cut off from those resources, but huge potential markets for American products would be threatened.)
Về khía cạnh thần học Ki Tô Giáo, không ai hiểu Mỹ bằng người Mỹ, nhất là giới trí thức Mỹ. Mục Sư Tin Lành Robert McAfee Brown viết (Ibid., trang 14) về khía cạnh tôn giáo của cuộc chiến:
Đây là cuộc chiến của “những kẻ tốt chống kẻ xấu”(good guys versus bad guys), “những kẻ tin Chúa chống những kẻ vô thần” (the godly versus the ungodly), “ánh sáng chống tối tăm”, là “cuộc đối đầu giữa những quốc gia nô lệ và quốc gia trong thế giới tự do” (the antagonists are the “slave nations” and the nations of the “free world”), cuộc chiến chống “những kẻ man rợ đe dọa những dân tộc văn minh, luật pháp và trật tự, và lối sống của người Mỹ” (Barbarians threaten civilized peoples, law and order, and the American way of life).  Đó là cách nhìn lịch sử của những người tin vào một cuộc chiến giữa thiện và ác trong ngày tận thế (Their view of history is apocalyptic)...
Trong những phim “cao-bồi”, bao giờ cũng có hai phe riêng biệt.  Một phe chiến đấu cho luật pháp và trật tự, phe kia vô luật pháp và vô trật tự.  Nếu trong chuyện phim có những dân da đỏ, sự xung đột là giữa những người da màu dã man và những người da trắng văn minh, yêu hòa bình.  Kết cục bao giờ cũng là cảnh tàn bạo.  Phe thắng là phe có nhiều vũ khí tối tân hơn hoặc rút súng nhanh hơn.  Khi mà, trong vài trường hợp, những kẻ xấu (da màu) tiêu diệt một nhóm nhỏ những kẻ tốt (da trắng), đó là một sự tàn sát độc ác và tàn nhẫn (it is a cruel and heartless massacre); khi mà những kẻ tốt (da trắng) giết vô số những kẻ xấu (da màu) [when the good guys kill huge numbers of bad guys], đó là một sự chiến thắng của công lý và văn minh (it is a victory for justice)
   Thật vậy, Mỹ tự cho rằng Mỹ là khuôn mẫu “thiện” của cả thế giới, vì Mỹ tin tưởng ở Thiên Chúa (In God We Trust), vì Mỹ là “quốc gia của Thiên Chúa” (God’s Country), người dân Mỹ là “dân của Thiên Chúa” (God’s people), Thiên Chúa ở đây phải hiểu là Thiên Chúa của Ki Tô Giáo mà không một ai biết là cái gì, cho nên, theo giáo lý rao giảng bởi Ki Tô Giáo: kẻ nào không tin Thiên Chúa của Ki-tô Giáo là kẻ ác, không thể có đạo đức v..v... đó là những kẻ vô thần, một từ thường được gán ghép với Cộng sản.  Tuy nhiên, rất ít người biết rằng, vì Thiên Chúa trong cuốn Kinh của Ki Tô Giáo [The Bible] có một hồ sơ nhân quyền kinh khủng nhất đối với nhân loại, cho nên Mỹ, cũng như Giáo hội Công giáo La mã trong lịch sử, cũng có một hồ sơ nhân quyền khủng khiếp nhất thế giới.  Về biến cố Mỹ bị loại ra khỏi Ủy Ban Nhân Quyền trước đây, Vince Hayner viết với nhan đề “Những Vi Phạm Của Hoa Kỳ” (US Violations) như sau:
   “Sự loại Hoa Kỳ ra khỏi Ủy Ban Nhân Quyền là một bất ngờ cần được hoan nghênh.  Trong khi các chính trị gia, ký giả và dân thường hỏi tại sao, câu trả lời ở ngay trước mắt chúng ta.
   Hoa Kỳ có một thành tích khủng khiếp về nhân quyền.  Ngoài chuyện hàng ngày áp bức chính dân của mình, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục vi phạm nhân quyền ở các nơi như Vieques (Porto Rico) bằng Hải Quân Hoa Kỳ, và ở quanh thế giới trong những xí nghiệp bóc lột nhân công tàn tệ (sweatshops) cho những xí nghiệp Hoa Kỳ, và điều có lẽ đáng lo ngại nhất là, giết hại hơn 1 triệu dân Iraq trong chiêu bài trừng phạt, đó là chỉ kể vài sự kiện.
Hi vọng rằng sự loại Hoa Kỳ ra khỏi Ủy Ban Nhân Quyền là một dấu hiệu mà các thành viên khác của LHQ sẽ không dung dưỡng cho những hành động không hề thay đổi, đơn phương tấn công nhân quyền của Hoa Kỳ.”
(The ejection of the US from the UN Human Rights Committee is a welcome surprise.  While politicians, journalists and everyday people ask why, the answer is right in front of us.
The US has a horrible human rights record.  Besides the daily oppression of its own citizens, the US continues to violate human rights in place like Vieques with the US Navy, around the world in sweatshops for US corporations and, perhaps most alarming, with the killing of more than 1 million Iraqi people via sanctions, just to name a few.
It is hoped that this ejection comes as a sign that the other members of the UN will not tolerate the consistent unilateral assaults on human dignity by the US.)
   Và như là một nghịch lý, nước Mỹ phần lớn là theo Ki Tô Giáo, thấm nhuần đạo đức của Ki Tô Giáo, nhưng về những tội ác trong xã hội thì nước Mỹ lại chiếm giải quán quân trên thế giới, theo chính những thống kê của Mỹ, với tỷ lệ các tội phạm trên tổng số dân rất cao so với các nước phi Ki-tô trên thế giới,.  Với ảo tưởng tự tôn trắng đen, “ta” thiện, chống “nó” ác, “chúng ta” và “chúng nó”, và tin vào ưu thế của vũ khí, Mỹ đã can thiệp vào Việt Nam bất kể lý do, bất kể đạo đức, bất kể công pháp quốc tế, đưa đến kết quả là gánh lấy sự thất bại đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ, sau khi tàn phá đất nước Việt Nam một cách man rợ, vô nhân tính.  Những người Ki Tô Giáo có một loại đầu óc rất kỳ lạ.  Họ cho rằng tất cả những người không tin Thiên Chúa của họ là vô đạo đức, trong khi đó thì họ có thể làm mọi điều vô đạo đức, ác ôn, mà vẫn cho rằng đạo đức vì đó là để vinh danh Thiên Chúa của họ.  Lịch sử Ki Tô Giáo hơn gì hết đã chứng tỏ như vậy.  Để rõ hơn chúng ta hãy đọc tài liệu sau:
   Trong cuốn “The Vietnam War and American Culture”, Giáo sư Noam Chomsky đã viết một bài dài về những cách nhìn của một số lãnh đạo Mỹ tự cho là công chính, thánh thiện (Visions of Righteousness).  Sau đây là vài đoạn điển hình của Giáo sư Chomsky, trước hết là về chính sách diệt chủng của Mỹ ở Philippines, được các hệ phái Ki Tô Giáo ở Mỹ ủng hộ, trang 25-25:
   Cuộc chinh phục Phi Luật Tân của Mỹ, chỉ huy bởi những người đã học từ những cuộc chiến với những thổ dân (da đỏ) Mỹ, là một trong những trang man rợ nhất của lịch sử hiện đại.  Chỉ trên đảo Luzon, khoảng 600000 thổ dân Phi chết từ cuộc chiến hay bệnh tật gây ra từ cuộc chiến.  Tướng Jacob Smith, người ra lệnh “giết và thiêu sống” (các người càng giết và thiêu sống nhiều thì càng làm cho ta vui lòng) để biến đảo Samar thành một “cảnh hoang vu ảm đạm”, về hưu mà không bị một sự trừng phạt nào của Tổng Thống Roosevelt… Giám đốc các cơ quan truyền giáo của hệ phái Ki Tô Trưởng Lão ca tụng cuộc chinh phục là một bước vĩ đại trong công cuộc văn minh hóa và phúc âm hóa thế giới, trong khi một thừa sai khác giải thích là “cách tra tấn bằng nước” thực sự không phải là “tra tấn”, vì “nạn nhân có tự quyền để chấm dứt sự tra tấn” bằng cách tiết lộ những điều hắn biết “trước khi cuộc tra tấn đi đến độ làm tổn thương nặng nề đến hắn”, và một giám mục lãnh đạo Tân Anh giáo ca tụng chiến thuật của tướng Smith là cần thiết để “làm sạch những thổ dân”, bọn người “man rợ và xảo trá”,  “những ảnh hưởng ác ôn” của một dạng Ki Tô Giáo suy đồi [nghĩa là Công Giáo].  Báo chí cũng hùa theo cùng những tình cảm như trên.  Tờ New York Criterion giải thích, “Dù muốn hay không, chúng ta phải tiếp tục tàn sát những thổ dân Phi theo mốt của người Anh, và tiếp nhận mọi vinh quang đục ngầu bởi sự tàn sát tập thể cho đến khi chúng học được bài học là phải tôn trọng quân đội của chúng ta.  Nhiệm vụ khó khăn hơn tiếp theo là làm cho chúng phải tôn trọng những ý định của chúng ta.”  Những tư tưởng tương tự cũng được phát biểu khi chúng ta đang tàn sát những người dân Nam Việt Nam, và chúng ta lại nghe lại ngày nay (1991), hầu như cùng những lời lẽ đó,  đối với những thành tích của chúng ta ở Trung Mỹ.  Nói đến “mốt của người Anh” thì mọi sinh viên học về lịch sử Hoa Kỳ đều hiểu, và những người còn nhớ lại những người Mỹ đến đây định cư, kể cả những người Thanh Giáo thánh thiện và George Washington, đã dạy thổ dân là chiến tranh theo mốt của người Anh là một hệ thống  tiêu diệt, nhắm thẳng vào phụ nữ và trẻ con.
(The American conquest of the Philippines, led by men who had learned their craft in the Indian wars, ranks among the most barbaric episodes of modern history.  In the Island of Luzon alone, some 600,000 natives perished from the war or diseases caused by it.  General Jacob Smith, who gave orders to turn the island of Samar into a “Howling wilderness”, to “kill and burn” (“the more you kill and burn the better you will please me”) was retired with no punishment by President Roosevelt…  The director of all Presbyterian missions hailed the conquest as “a great step toward the civilization and evangelization of the world”, while another missionary explained that the “water cure” was not really ‘torture” because “the victim has it in his own power to stop the process” by divulging that he knows “before the operation has gone far enough to seriously hurt him”, and a leading Episcopal Bishop lauded general Smith’s tactics as necessary “to purge the natives”, who were “treacherous and barbarous”, of the “evil effects” of “a degenerate form of Christianity”.   The press chimed in with similar sentiments.  “Whether we like it or not”, the New York Criterion explained, “we must go on slaughtering the natives in English fashion, and taking what muddy glory lies in the wholesale killing until they have learned to respect our arms.  The more difficult task of getting them to respect our intentions will follow.”  Similar thoughts were expressed as we were slaughtering the natives in South Vietnam, and we hear them again today, often in almost these words, with regard to our current exploits in Central America.  The reference to the “English fashion” will be understood by any student of American history, by anyone who recalls how the settlers, including the saintly Puritans and George Washington, taught the natives that war in the English fashion is a system of extermination, directly specifically against women and children.)
Có lẽ không có cuốn sách nào đi thẳng vào những vấn đề như giải thích cuộc chiến, tại sao nó lại xẩy ra, tại sao người Mỹ lại lâm vào cuộc chiến như vậy để cuối cùng đi đến thất bại v..v.. bằng cuốn Kết Quả Ngược Chiều:  Việt Nam – Những Huyền Thoại Khiến Chúng Ta Chiến Đấu, Những Ảo Tưởng Giúp Chúng Ta Thua, Cái Di Sản Vẫn Ám Ảnh Chúng Ta Ngày Nay (Backfire:  Vietnam – The Myths That Made Us Fight, The Illusions That Helped Us Lose, The Legacy That Haunted Us Today, Ballantine Books, New York, 1985) của Giáo sư Loren Baritz, Trưởng Khoa Lịch Sử, Đại Học Rochester.  Sau đây là một đoạn giải thích của Giáo sư Loren Baritz, trang 10-11:
Người Mỹ không biết gì về người Việt Nam không phải là chúng ta đần độn, mà vì chúng ta tin vào một số điều về chính chúng ta... Muốn hiểu sự thất bại của chúng ta, chúng ta cần phải suy nghĩ về thế nào là một người Mỹ... Huyền thoại về Mỹ như là một thị trấn trên một ngọn đồi uẩn hàm Mỹ là gương mẫu đạo đức cho phần còn lại của thế giới, một thế giới cho rằng sẽ đặc biệt ngưỡng mộ chúng ta.  Điều này có nghĩa là chúng ta là một dân tộc được [Thiên Chúa, lẽ dĩ nhiên của Ki Tô Giáo]chọn, mỗi người trong đó, vì được sự ưu đãi và sự hiện diện của Thiên Chúa, có thể vật chết dễ dàng 100 kẻ thù ngoại đạo...
   Có vô số cách để người Mỹ biết trong lòng – nơi duy nhất mà những huyền thoại có thể sống được – làchúng ta được chọn để dẫn giắt thế giới trong vấn đề đạo đức công cộng và dạy cho thế giới trong đức tính chính trị.  Chúng ta tin rằng những sự tốt đẹp trong nước chúng ta kết thành sức mạnh đủ để triệt hạ đối thủ của chúng ta, những người, theo định nghĩa, là kẻ thù của đức tính, của tự do, và của Thiên Chúa.
(Americans were ignorant about the Vietnamese not because we were stupid, but because we believe certain things about ourselves... To understand our failure we must think about what it means to be an American...  The myth of America as a city on a hill implies that America is a moral example to the rest of the world, a world that will presumably keep its attention riveted on us.  It means that we are a Chosen People, each of whom, because of God’s favor and presence, can smite one hundred of our heathen enemies hip and thigh...
In countless ways Americans know in their gut – the only place myths can live – that we have been Chosen to lead the world in public morality and to instruct it in political virtue.  We believe that our own domestic goodness results in strength adequate to destroy our opponents who, by definition, are enemies of virtue, freedom, and God)
   Và tác giả nhận định: “Cái huyền thoại về một thị trấn trên ngọn đồi đã sụp đổ sau cuộc chiến (ở Việt Nam). Cuộc chiến đã dạy chúng ta là chúng ta không thể tiếp tục giữ vai trò cố vấn về đạo đức hay ép buộc đạo đức trên thế giới.” (The city myth should have collapsed during the war.  The war should have taught us that we could not continue to play the role of moral adviser and moral enforcer to the world.) (Baritz, p. 14)
   Người Mỹ tin tưởng họ là dân được Thiên Chúa chọn nên tất nhiên phải đạo đức hơn mọi người khác, nhất là những người không tin Thiên Chúa của họ.  Nhưng sự thực ra sao?Theo một số thống kê của chính Mỹ, về những tệ đoan xã hội, về tội ác cũng như về đạo đức, Mỹ chiếm giải quán quân trên thế giới
Theo vài con số thống kê của Mỹ, chúng ta có thể thấy tình trạng xã hội của một quốc gia tin Thiên Chúa như nước Mỹ ra sao: 
  1. Thống kê năm 2000:  14 triệu người tuổi từ 12 trở lên dùng ma túy (6.3% dân số).
  2. Năm 2001: 15.980 vụ giết người, 90.491 vụ hiếp dâm.  Cứ 2 phút lại có một người bị hiếp (tài liệu của bộ Tư Pháp)
  3. Trên 1 triệu gái mãi dâm hành nghề trên đường phố, nhà tắm hơi (sauna), phòng tẩm quất (massage parlor) và qua điện thoại, trong đó có300.000 vị thành niên.  Thành phố New York tốn $43 triệu mỗi năm để kiểm soát các vấn đề liên quan đến mãi dâm.
  4. 4.000 vụ phá thai mỗi ngày.  Năm 1999 có 1.365.730 vụ phá thai.
  5. 14.000.000 người nghiện rượu.
  6. Có 2.200.000 tù nhân Mỹ đang ngồi tù.  Cả thế giới có 9.000.000 người đang ngồi tù, Mỹ chiếm 22% trong khi tỷ lệ dân số của Mỹ trên thế giới chỉ có 5%.
  7. Ở Trung Quốc thì cứ trong 100.000 người có 111 người ngồi tù, ở Mỹ là 686 người, gấp hơn 6 lần trong khi dân số Mỹ chỉ bằng 24% dân số Trung Quốc.
  8. 50% các cặp vợ chồng do Chúa kết hợp đi đến ly dị.
  9. Từ 4% đến 10% dân chúng đồng tính luyến ái.
  10. Trên 5000 linh mục Công Giáo bị truy tố về tội cưỡng dâm trẻ em phụ tế và nữ tín đồ.
Qua những con số thống kê ở trên, chúng ta thấy rằng xã hội Mỹ không tốt đẹp như chúng ta tưởng.  Trong một xã hội mà con người ám ảnh về tình dục, tiền, và bạo lực (sex, money and violence) mà chung ta thấy tràn ngập trên TV, phim ảnh v..v… thì những tệ đoan xã hội tất nhiên phải có, nhiều hay ít.  Nhưng vấn đề là người dân Mỹ không ai quy trách cho chính phủ là nguyên nhân của những tệ đoan xã hội.  Trong khi đó thì một số người Việt Nam chống Cộng cực đoan luôn luôn đổ trách nhiệm về những tệ đoan xã hội lên đầu Cộng sản. Nhưng Cộng sản cũng không thể trốn trách nhiệm, với cương vị của những nhà cách mạng, đã để cho nền văn hóa dân tộc suy thoái với những phim ảnh ăn cắp từ cốt truyện đến cách đóng phim, quần áo hở hang không hợp chỗ, đến cảnh trai gái bừa bãi, rượu chè v…v…của xã hội “kim chi”.
Không ai có thể phủ nhận Mỹ là nước giàu nhất và mạnh nhất về quân sự.  Nhưng còn về các vấn đề đạo đức xã hội, đạo đức thế giới, đức tính của con người, thì Mỹ không có gì để so sánh với các quốc gia Á Châu.  Tổng thống Bush mở cuộc xâm chiếm Iraq cũng không ít thì nhiều có niềm tin về huyền thoại của một thị trấn trên ngọn đồi.  Sống ở Mỹ chúng ta không lạ gì khi thấy những nhóm “da trắng ưu việt” (white supremacists) có những hành động bạo động ác ôn đối với những người da màu mà chúng cho là thấp kém trong khi tuyệt đại đa số chúng không tốt nghiệp nổi Trung Học.
Chúng ta còn nhớ, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc U Thant, sau khi quan sát tình hình ở Việt Nam, đã tuyên bố: Cuộc chiến chênh lệch giữa kỹ thuật Hoa Kỳ và một nước nhỏ kém mở mang (VN) là một trong những cuộc chiến"man rợ nhất" của lịch sử. (The Secretary of the United Nations, U Thant, was driven by his observations to call this mismatch between the United States and a small underdeveloped nation one of the "most barbarous" wars in history)
Và Martin Luther King, Jr., 1967, cũng đã phát biểu:
Chúng ta không có một ý định nào đáng vinh dự ở Việt Nam (We have no honorable intentions in Vietnam).
Hành động can thiệp vào Việt Nam của Mỹ không nằm ngoài chủ trương của Mỹ là thiết lập một trật tự thế giới ổn định (a stable world order), theo ý định của Mỹ, mà trong cái gọi là trật tự thế giới này, Mỹ nắm Ngân Hàng Quốc Tế (World Bank), Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF = International Monetary Fund).  Mỹ đã dùng những cơ quan này để cho các nước nhỏ đang mở mang vay nhẹ lãi, hỗ trợ những dự án có lợi cho Mỹ, và khi cần có thể làm sụp đổ nền kinh tế địa phương.  Thật vậy, theo Mục sư Robert McAfee Brown (Ibid., trang 24) thì:
Trật tự thế giới ngày nay rất lợi lộc cho những nhà tư bản Mỹ, những người ngồi trên chóp của đống lợi nhuận.  Ngoại viện của Mỹ cho những kém mở mang được coi như là một chủ nghĩa đế quốc mới; không phải là đế quốc quân sự mà là đế quốc đô-la.  Đế quốc đô-la không hiển nhiên như đế quốc thực dân; nó không toan tính thiết lập một văn phòng chính trị thực dân.  Nó mua chuộc những chính trị gia bản xứ sẵn sàng bán linh hồn và xen vào nội bộ của quốc gia qua những phương pháp kinh tế chứ không phải là chính trị.  Nó cũng có hiệu lực như là thực dân quân sự nhưng khó mà có thể lột mặt nạ của nó ra. [Chúng ta hãy nhìn kỹ vài bộ mặt chính trị gia (sic) được Mỹ mời đến dự ngày độc lập của Mỹ tại Tòa Đại Sứ ở Việt Nam]
(The present world order is very profitable for capitalists in the United States, who are sitting on top of the heap.  The foreign aid given by the United States to underdeveloped nations is regarded as a new kind of imperialism: not military but dollar imperialism; it does not attempt to set up a colonial political office.  Instead, it buys out willing native politicians and interferes in the country through economic rather than political methods.  It is just as effective as colonial imperialism, though harder to unmask.)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét