Thứ Hai, 26 tháng 3, 2012

Chúng Ta Có Nên Tôn Trọng Tôn Giáo Không?


(Should We Respect Religion?)
By: Barbara Smoker
Mục đích chính của những phê bình chỉ trích là mở mang trí óc của quần chúng, cập nhật hóa những thông tín chính xác về tôn giáo để cho quần chúng có một cái nhìn đúng đắn hơn về tôn giáo của mình.

Lời Nói Đầu:
Tôn giáo, hiểu theo nguyên nghĩa Tây phương và được trình hiện bằng giáo hội, giáo quyền và giáo chế hiện nay, có đáng cho chúng ta phải kính trọng không? Và có đáng cho xã hội phải hy sinh quyền tự do ngôn luận mà im lặng đừng phê phánkhông ? Trong bài viết ngắn nhưng xuất sắc dưới đây, bà Barbara Smoker, chủ tịch Hội Thế tục Quốc gia tại Anh quốc, đã lấy Thiên Chúa giáo và Hồi giáo như hai trường hợp nghiên cứu điển hình để phản bác khuynh hướng cực đoan muốn áp đặt vai trò thượng tôncủa tôn giáo trong đời sống tri thức của con người.  Phật giáo, như một biệt lệ, rõ ràng không nằm trong định nghĩa nầy. Và lời Đức Phật dạy trong kinh Kalama về Lòng Tin thật đáng cho Phật tử chúng ta ngẩng đầu, thanh thản và trong sáng mở mắt trí tuệ mà nhìn đời ...
Trong thế giới văn minh tiến bộ ngày nay, với trí tuệ của con người tiến hóa và phát triển qua nhiều thời đại, với những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, đầu óc con người đã mở mang trên mọi địa hạt, không một tôn giáo nào có thể cho là mình nắm giữ chân lý tuyệt đối, mà không phải qua sự thử thách của nền học thuật thời đại.  Do đó, phê bình và ngay cả việc chỉ trích những sai trái của tôn giáo không còn là điều cấm kỵ, mà trái lại còn là bổn phận của những người quan tâm đến sự an sinh của quần chúng.  Điều này chúng ta thấy rõ trong các xã hội tiến bộ Âu Mỹ. 
Nhưng phê bình, chỉ trích như thế nào, đó là cả một vấn đề. Nó là vấn đề vì trong những tôn giáo độc thần, tuyệt đại đa số tín đồ thiếu hiểu biết, kèm với tâm cảnh cuồng tín đã ăn sâu trong đầu, thường cho rằng tôn giáo của họ là một cái gì bất khả xâm phạm, có vai trò thượng tôn, đứng trên xã hội, không ai có quyền đụng tới.  Do đó những nhà phê bình, chỉ trích tôn giáo, và ngay cả những sự kiện khoa học trái với niềm tin tôn giáo, cũng phải đối diện với những lời mạ lỵ, xuyên tạc, vu khống  của các tín đồ thuộc loại này.
Tuy nhiên, trong tinh thần phê bình lương thiện trí thức, có vài tiêu chuẩn chúng ta phải tôn trọng.  Tôn trọng quyền phát biểu ý kiến cũng như quyền bất đồng ý kiến đúng đắn; tôn trọng sự thật, nghĩa là phải chấp nhận sự thật dù sự thật đó có thể trái với niềm tin của mình và có thể làm cho mình đau lòng; những lời phê bình hay chỉ trích phải có những luận cứ hợp lý, có cơ sở, để bảo đảm giá trị; và tuyệt đối không được xuyên tạc sự việc.    
Về vấn đề phê bình tôn giáo, có một quan niệm hết sức sai lầm của một số người là cho rằng bất cứ sự phê bình, chỉ trích tôn giáo nào cũng bắt nguồn từ lòng hận thù hay ganh ghét tôn giáo đó, hay để chống đối tôn giáo đó.  Những người có đầu óc thiển cận, chưa theo kịp thời đại  như vậy, phần lớn là thuộc các hệ phái Ki Tô Giáo, đặc biệt là Công Giáo và Tin Lành, không nhận thức được rằng tuyệt đại đa số những tài liệu mà họ cho là “chống tôn giáo” lại phát xuất từ những bậc lãnh đạo và các bậc trí thức, học giả trong chính tôn giáo của họ. Họ cũng không nhận thức được mục đích chính của những phê bình chỉ trích là mở mang trí óc của quần chúng, cập nhật hóa những thông tín chính xác về tôn giáo để cho quần chúng có một cái nhìn đúng đắn hơn về tôn giáo của mình.
Bài của Barbara Smoker sau đây thuộc loại này.   Và quý độc giả sẽ nhận thấy Giao Điểm không làm gì hơn là theo sát chủ trương này.
G.Đ. 

Ngày 25 tháng 5, 2006, tôi tham gia cuộc tranh luận ở đại học Oxford để chống bản kiến nghị “Tự do ngôn luận nên kiềm chế để tôn trọng tôn giáo.”  Thuyết trình viên chính có cùng quan điểm với tôi là Flemming Rose, chủ biên người Đan Mạch đã xuất bản những tranh biếm thị gây tranh cãi về Muhammad.  Với tiền thưởng cả triệu đô-la treo trên cái đầu của ông ta, những biện pháp an ninh cho cuộc tranh luận thật là chặt chẽ.  Mọi người đều bị khám xét trước khi vào phòng họp.  Trong những ngày mà tôi còn là Chủ Tịch Hội Thế Tục Quốc Gia, tôi thường tham dự những cuộc tranh luận ở đại học (hầu hết trong khoảng 1970-1990).  Hầu như bao giờ tôi cũng bị thua khi bỏ phiếu, nhưng lần này chúng tôi đã thắng với tỷ lệ cao: 129/59.  Nếu từ “tôn giáo” trong bản kiến nghị được thay thế bằng bất cứ từ trừu tượng nào khác, chúng tôi đã thắng với tỷ lệ 188/0.  Giả thử từ đó là “khoa học” thì bản kiến nghị đó sẽ là “Tự do ngôn luận nên kiềm chế để tôn trọng khoa học.” và không một người nào có lý trí lại bỏ phiếu cho kiến nghị đó, đừng nói đến các khoa học gia thứ thiệt.  Vậy thì tại sao tôn giáo lại có một địa vị duy nhất có đặc quyền như vậy.  Trong nhiều ngàn năm nó như là một chuẩn tắc mà không ai nghĩ đến việc nó cần phải chứng minh là đúng.
Như tôi đã vạch rõ trong cuộc tranh luận, giới điều tôn trọng tôn giáo thì giống như luật của Moses, “Hãy hiếu kính cha mẹ”.  Nhưng giả thử cha mẹ của bạn là những sát nhân?  Họ không xứng đáng được bạn tôn trọng, và hầu hết các tôn giáo cũng không xứng đáng để chúng ta tôn trọng.  Vậy thì chúng ta có nên tôn trọng đức tin tôn giáo không?  Chắc chắn là không.  Nhưng chúng ta có nên tôn trọng con người không?  Có, chừng nào mà họ không chống xã hội và không có chủ đích áp đặt những quan điểm tôn giáo của họ trên những người khác.  Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta tôn trọng họ là những người tốt, chúng ta không thể tôn trọng tín ngưỡng của họ.  Đức tin, có nghĩa là tin chắc vào sự thiếu vắng của chứng cớ, thì phản bội sự thông minh của con người, phá ngầm kiến thức đặt căn bản trên khoa học, và làm tổn thương nền luân lý thông thường.  Nếu có những chứng cớ chủ quan về những giáo lý của họ, đó không còn là đức tin; đó là kiến thức.
Chúng ta phải miễn thứ cho những người nghi ngờ Ki Tô Giáo trong thời Trung Cổ khi họ giả bộ tôn trọng Ki Tô Giáo thay vì phải đối phó với nguy cơ bị đưa lên giàn hỏa, và cũng giống như những người Hồi giáo bỏ đạo ngày nay vẫn nói trên đầu môi chót lưỡi về Hồi Giáo trong những quốc gia theo Hồi giáo rằng bỏ đạo vẫn còn là một sự xúc phạm chính; nhưng chúng ta là những người sống trong một xã hội tương đối tự do chúng ta không có quyền miễn thứ như vậy.  Thật ra thì tất cả chỉ là phận sự của chúng ta trong việc ủng hộ những nạn nhân của sự đàn áp tôn giáo ở khắp nơi bằng cách ra khỏi cái tủ kín đáng kính (sự yên lặng) để nói lên ý nghĩ của chúng ta.
Tự do ngôn luận thì quan trọng hơn là sự tôn trọng.
Hoài nghi thật là cực kỳ quan trọng vì đó là cửa ngõ đi vào kiến thức; nhưng trừ phi những ý tưởng hoài nghi được bàn cãi tự do, chúng không thể bị đánh giá, cũng như những kiến thức sau đó không thể truyền bá trong xã hội.
Những nhà độc tài cực đoan, thuộc bất cứ tôn giáo hay hệ phái nào, luôn luôn đặt đức tin lên trước hết và không có chỗ cho tự do.  Sự kiểm duyệt, kể cả sự tự kiểm âm thầm, đã là chuyện hàng ngày, theo sát sau là sự tàn bạo.  Trong một xã hội mà chế độ chính thống tôn giáo ngự trị thì không có tự do tôn giáo.  Thật vậy, sự hung dữ kích động bởi những hình biếm thị Đan Mạch đã bị những bài báo cực đoan Hồi giáo cố ý phóng đại câu chuyện để khuấy động những quốc gia Hồi giáo, cho tới 4 tháng sau những hình đó lên báo. 
Tôi đã thảo luận điều này với một số tín đồ Hồi giáo ôn hòa, và trong khi họ thường lên án những sự trả thù tàn bạo, họ thường thêm câu “Nhưng chúng ta không được mạ lỵ tôn giáo”.  Tại sao không?  Không ai tố cáo sự chế riễu những quan điểm chính trị, được mở rộng để tranh luận tự do.  Thật ra là, sự tôn trọng tôn giáo một cách chân thực là để cho tôn giáo đó cũng được mở rộng như vậy, đặt niềm tin vào sự thật nẩy nở ra từ đó.  Nhưng ngày nay nó bị che dấu trước những sự nghiên cứu sâu xa lương thiện.  Điều này chứng tỏ rằng tập đoàn những người có đức tin ý thức được là họ không thể đối phó với những sự nghiên cứu như vậy.  Chúng ta được các chính trị gia và các viên chức miệng lúng búng đầy bột bảo rằng không đúng với chính trị khi gọi những thủ phạm cuộc đặt bom ở Luân Đôn ngày 7 tháng 7, 2005, là những tên khủng bố Hồi giáo – nhưng, dĩ nhiên, ai cũng biết chúng là những tín đồ Hồi giáo, và là nhưng kẻ nhiệt tình nhất.  Niềm tin của họ về một đời sau hạnh phúc của các “thánh tử đạo” là một mặt khác của vấn đề, và, vì cái niềm tin về một đời sau này không thể lay chuyển, điều mà chúng ta cần có là một ông Ayatollah đáng kính, với hậu thuẫn của Kinh Qur’an, tuyên bố rằng những kẻ ôm bom tự sát thực sự sẽ đi xuống địa ngục (hoặc, ít nhất là, thiên đường đó đã hết trinh nữ).
Tuy rằng chúng ta phải cẩn thận tránh một kẽ hở địa phương để chống cộng đồng Hồi giáo hiền hòa ở Anh, nhiều chính quyền tiếp nối nhau đã giảm tội quá mức cho những  tên Hồi giáo côn đồ hung ác trong quá khứ.  Thí dụ, ngay từ 1989, khi các lãnh tụ Hồi giáo treo giải thưởng trên đài truyền hình BBC để lấy đầu Salman Rushdie, họ chưa bao giờ bị kết án là đã xách động để giết người.  Những kẻ đặt bom ngày 7 tháng 7 là những thanh niên Hồi giáo sinh ở Anh, có ba tên chết, đã được nhanh chóng nhận diện lý lịch.  Ít nhất là một trong số này thường tới Mosque của Hồi giáo ở Finsbury Park, ở đó Abu Hamza được biết và để yên cho rao giảng sự bạo hành vì thù hận và xách động giới trẻ đi giết người trong suốt 8 năm, trước khi Cơ Quan Truy Tố Crown bắt đầu đưa tội ác của hắn ra ánh sáng năm 2004 – và chỉ sau khi Hoa Kỳ yêu cầu dẫn độ hắn để xét xử những tội ác của hắn chống Hoa Kỳ.
Từ ngữ “Thỏa hiệp vô nguyên tắc” rất hiếm khi được dùng trừ trong ngữ cảnh về cuộc thương thuyết của Neville Chamberlain với Hitler năm 1938, nhưng về sự thỏa hiệp vô nguyên tắc với những người Hồi giáo ngày nay ở Anh thì sao?  Điều hiển nhiên là chúng ta không thể thành thực tôn trọng một ý thức hệ mà lý trí của chúng ta bác bỏ nó như là mê tín, khoan nói đến sự mê tín nguy hiểm;  vậy thì cái kiến nghị muốn chúng ta phải tôn trọng nó thực sự chỉ có nghĩa là chúng ta nên giả bộ tôn trọng tôn giáo vì đó là thái độ chính trị đúng.  Do đó, ít nhất là, cái kiến nghị mà tôi tranh luận ở Oxford đòi hỏi sự đạo đức giả.  Nhưng đạo đức giả không phải là điều tệ nhất.
Khi mà những ý thức hệ mà chúng ta giả bộ tôn trọng được để cho tự do nhồi sọ trẻ con, một số có thể lớn lên thành những kẻ ôm bom tự sát vì sự nhồi sọ này, đạo đức giả trở thành đồng lõa trong sự lạm dụng đầu óc của trẻ con, sự đàn áp phái nữ, và ngay cả sự xách động khủng bố.  Điều này đã bị các đại diện chính trị của chúng ta làm trầm trọng thêm, để kiếm phiếu, để dựng lên những trường học do chính phủ tài trợ để thúc đẩy sự nhồi sọ trẻ con vào một đức tin đặc biệt, tuy rằng chính họ có thể đã ở trong một tập hợp mê tín bất khả phù hợp khác.
Người ta bảo rằng không thể quy trách cho Hồi giáo về những vụ khủng bố ở New York, Madrid, và Luân Đôn, và tiếp theo là những cuộc tàn sát sâu rộng để trả thù vì vài bức hình vô hại trên báo chí.  Như vậy cũng như là nói rằng những sự khủng khiếp của những Tòa Án Xử Dị Giáo thì chẳng liên quan gì đến Ki Tô Giáo.
Trong các Phúc Âm, Giê-su nhất quán coi những người tin ông ta là những kẻ công chính; và trong thời đại của đức tin, tuyên ngôn của Thomas Aquinas rằng: “Không tin là một tội lớn nhất trong các tội ” thì đã rõ rành rành.  Do đó, những Tòa Ác Xử Dị Giáo, những cuộc Thập Ác Chinh, và người Ki Tô thiêu sống phù thủy, những kẻ lạc đạo, và Do Thái – những ngọn lửa này được quạt lên bởi đức tin Ki Tô Giáo.  Sự dùng những cực hình tra tấn này không phải là trường hợp của những kẻ xấu làm đồi bại một tôn giáo tốt;  sự bạo hành những kẻ hoài nghi là sự tiếp nối lô-gic của Ki Tô Giáo về sự tương quan giữa đức tin và cứu rỗi, khoan kể đến khái niệm đáng sợ là Thượng đế có thể trừng phạt toàn thể xã hội vì sự bất tín của một vài người.
Muhammad theo sau Giê-su, và Kinh Qur’an chứa những tố giác sự bất tín nhiều hơn là ở trong Tân Ước.  Hơn nữa, Hồi Giáo đã không kiềm chế những thực hành độc ác của mình như là Ki Tô Giáo đã làm được trong vài thế kỷ qua.
Lực lượng Taliban, Al Qaeda, và quân đoàn Iraq của Badr (chỉ huy bởi Hội Đồng Tối Cao về Cách Mạng Hồi Giáo của Iraq) chắc chắn là những tổ chức cực đoan, nhưng tất cả đều chính thống dẫn xuất một cách lô-gic từ Kinh Qur’an, Kinh này coi thường phỉ báng phái nữ và dạy các tín đồ phát động thánh chiến chống những kẻ lạc đạo và không tin.  Những người Hồi giáo ôn hòa có thể giải thích điều này như là vì hiểu sai Kinh Qur’an – nhưng vậy thì tại sao Allah hay tiên tri của ông ta lại sa vào vòng mơ hồ, không rõ ràng.  Ngay cả hai hệ phái Hồi giáo chính, Shii và Sunni, cũng đang giết nhau ở Iraq và nơi khác.
Chúng ta được bảo rằng những người Hồi giáo nhạy cảm và thực sự bị xúc phạm khi tôn giáo của họ bị chế nhạo.  Nhưng họ có công nhận cái mà họ cho là thượng đế sáng tạo của họ cũng có chút đầu óc hài hước không?  Có thật là ông ta đã phát minh những chuyện cười hay không?  Và có phải là ông ta quá yếu kém đến độ không chịu nổi một chuyện tiếu lâm nếu không có vài thầy tu không biết cười phải xông ra để chống đỡ cho ông ta.  Hãy để cho họ lưu ý điều đối đáp cũ kỹ trên sân chơi: “Gậy và đá có thể làm gẫy xương của tôi, nhưng những lời lẽ thì không bao giờ làm tôi đau.”
Cho rằng vì quá nhạy cảm và thực sự bị xúc phạm bởi từ ngữ hay tranh ảnh dĩ nhiên là để chiếm đặc quyền.  Tất cả mọi người khác đều phải ăn nói nhẹ nhàng để khỏi làm đau lòng  anh/chị.  Người ta lấy lý lẽ là, vì đạo luật thông thường về xúc phạm và báng bổ còn hiệu lực ở Anh Quốc, tuy rằng luật đó chỉ là để bảo vệ giáo hội Anh, để cho giống nhau, đạo luật đó phải được mở rộng để bảo vệ các tôn giáo khác.  Nhưng ngày nay, trên thực tế, đạo luật đó là một văn bản chết, và giải pháp tốt nhất rõ ràng là phải hủy bỏ nó đi, vì thật ra, Ủy Ban Luật Pháp đã nhiều lần đề nghị như vậy với nhiều chính phủ tiếp nối nhau, nhưng tai của họ còn điếc hơn là tai ở cái tuổi của tôi.  Nhưng ngày nay quan niệm báng bổ đã được gọi lại là “không tôn trọng những tình cảm tôn giáo”
Chính phủ của chúng ta ngày nay đã đi đến độ năng nổ quy tội ác cho sự không tôn trọng với một sự thay đổi khác về danh từ, “kích động sự thù hận tôn giáo”; nhưng, may thay, những tu chính để cho bản dự luật khá hơn được đưa ra thượng viện và sau cùng được hạ viện chấp thuận – bởi đúng có một phiếu, khi thủ tướng Blair vắng mặt – ngày 31 tháng 1 năm nay.  Và dự luật đã được giảm bớt đi nay đã thành luật.
Lẽ dĩ nhiên, đạo luật phải bảo vệ người dân.  Thật vậy,  đó là căn bản của luật pháp, và chúng ta có khá nhiều luật đại cương để bảo vệ người dân, không cần đến những luật đặc biệt để bảo vệ những ý tưởng về một loại đặc biệt nào đó.
Ngày 20 tháng 2, giáo hoàng Benedict XVI kêu gọi sự tương kính giữa mọi tôn giáo trên thế giới và những biểu tượng của các tôn giáo [Điều này cho thấy bộ mặt đạo đức giả của Benedict XVI nếu chúng ta nhớ ông đã từng phê bình Phật Giáo như thế nào và đã tung ra bản văn Dominus Jesus ra sao] – tuy rằng ông ta không nói gì đến, lẽ dĩ nhiên, sự tương kính song song đối với chủ nghĩa vô thần.  Dù sao thì, làm sao mà giáo hoàng thành thực kính trọng Hồi giáo khi đạo này dạy rằng những kẻ tin vào cái thuyết “báng bổ” Chúa Ba Ngôi [của Công giáo] thì sẽ đi xuống hỏa ngục vĩnh hằng?  Khoan nói đến chuyện, cho đến ngày nay, hình phạt tử hình vẫn thường được thông qua trong những quốc gia Hồi giáo đối với những tín đồ Hồi giáo cải đạo sang Ki Tô Giáo.  Phán quyết về luật Hồi giáo của Shia Grand Ayatollah Ali al-Sistani gần đây nói rằng những người đồng giống luyến ái không chỉ bị giết mà còn phải giết bằng cách khốc liệt nhất.  Để so sánh, thành kiến chống đồng giống luyến ái của giáo hoàng Benedict thì khá kiềm chế.
Bi áp lực của các nhà lãnh đạo tôn giáo dìm sâu những khác biệt để tranh đấu cho mục tiêu chung là quyền độc đoán, Cộng Đồng Âu Châu đang toan tính đưa vào Quốc Hội Âu Châu, cùng với ngay cả Hoa Kỳ, luật bắt buộc phải “tôn trọng tình cảm tôn giáo” quốc tế.  Gài vào từ “tình cảm” làm cho mục tiêu này giống như là sự đồng cảm với nhân loại.  Nhưng với tất cả lương tri con người, tôn giáo không thể được tôn trọng một cách trí thức nếu sự lương thiện phải đặt đàng sau sự đạo đức giả - và tôn trọng sai lầm không những chỉ là nhu nhược và không lương thiện, mà thực sự còn cho phép những sự mê tín của thời Trung Cổ thắng thê, hủy diệt toàn thề những sự tự do cá nhân và xã hội đạt được trong vài thế kỷ qua.
Do đó, vì tự do cũng như vì sự thật, chúng ta phải chống lại cái chiêu bài không thể biện minh được về sự tôn trọng đạo đức giả.
Thay vì sẵn sàng kiềm chế tự do ngôn luận để tôn trọng tôn giáo, chúng ta nên kiềm chế sự trôn trọng tôn giáo để cho được tự do ngôn luận.

Should We Respect Religion ?
by Barbara Smoker
(http://www.secularhumanism.org/index.php?section=library&page=smoker_26_6)
[Barbara Smoker was president of Britain's National Secular Society. She was recently honored with a lifetime achievement award for Distinguished Services to Humanism].
On May 25, 2006, I took part in the Oxford University Union Debate, opposing the motion that "Free speech should be moderated by respect for religion." The chief speaker on my side was Flemming Rose, the Danish editor who published the controversial Muhammad cartoons. As there is a seven-figure bounty on his head, the security arrangements for the debate were heavy. Everyone was searched on the way in. In the days when, as president of the National Secular Society, I frequently took part in university debates (mainly during the 1970s through the 1990s). I was almost invariably on the losing side when it came to the vote, but this time we won by a good margin 129-59. If the word “religion” in the motion were replaced by any other abstract noun, we would have won by 188 to nil. Suppose the word was “science”, the motion would then have read "Free speech should be moderated by respect for science"; and no reasonable person would vote for that, least of all, a genuine scientist. So why is religion given its uniquely privileged status? After thousands of years, it is the norm-so no one ever thinks it needs justifying.
As I pointed out in the debate, the precept to respect religion is similar to the Mosaic commandment, "Honor thy Father and thy Mother." But suppose your father and mother happened to be murderers? They wouldn't deserve your respect, and most religions don't either. Should we, then, respect religious faith? Certainly not. But should we respect religious people? Yes, as long as they are not antisocial and do not aim to impose their religious views on others.
However, even if we respect them as good-living people, we cannot respect their beliefs. Faith, which means firm belief in the absence of evidence, betrays human intelligence, undermines science-based knowledge, and compromises ordinary morality. If there were objective evidence for its doctrines, it would no longer be faith; it would be knowledge.
We have to excuse the medieval skeptics who pretended to respect Christianity rather than risk being burned at the stake, and likewise the apostate Muslims of today who pay lip-service to Islam in those Islamic countries where apostasy is still a capital offense; but we who live in a comparatively liberal society have no such excuse. In fact, it is all the more incumbent upon us to give our support to victims of religious oppression everywhere by coming out of the respectful closet and speaking our minds. Freedom of speech is more important than respect.
Skepticism is of paramount importance, because it is the gateway to knowledge; but unless the skeptical ideas are freely argued over, they cannot be assessed, nor can the ensuing knowledge spread through society.
Totalitarian extremists, of whatever religion or sect, invariably put faith first and freedom nowhere. Censorship, including insidious self-censorship, is then the order of the day, followed closely by violence. In a society where religious orthodoxy rules, there is no freedom of religion. Incidentally, the violence provoked by the Danish cartoons was deliberately stirred up by Islamic extremists publishing exaggerated versions of them in Muslim countries, up to four months after the originals were published.
I have discussed this with several moderate Muslims, and while they roundly condemned the violent reprisals, they generally added, "But people ought not to insult religion." Why not? No one would denounce the ridiculing of political views, which are open to free debate. In fact, true respect for religion would allow it to be opened up in the same way, relying on the truth emerging. But at present it is shielded from honest scrutiny. This suggests that the faithful realize it could not stand up to it. We are told by politicians and mealy-mouthed functionaries that it is politically incorrect to call the perpetrators of the July 7, 2005, bombings in London Muslim terrorists - but, of course, everyone knows they were Muslims, of the most zealous kind. Their belief in a blissful afterlife for martyrs is another aspect of the problem, and, since this afterlife belief is unshakable, what we need perhaps is a revered ayatollah to proclaim, with Qur'anic support, that suicide bombers will actually go to hell (or, at least, that paradise has run out of virgins).
Though we must take care to avoid a native backlash against the mostly peaceable British Muslim community, succeeding governments have carried the exoneration of Muslim villains too far in the past. For instance, as long ago as 1989, when imams were offering bribes on BBC television for the murder of Salman Rushdie, they were never charged with incitement to murder.
The July 7 suicide bombers were British-born Muslim youths, three of whom-all found dead - were quickly identified. At least one of them used to attend the Finsbury Park Mosque, where Abu Hamza was knowingly allowed, for eight years, to preach violent hatred and incite young men to murder, before the Crown Prosecution Service started criminal proceedings against him in 2004-and only then because the United States was demanding his extradition to their country to be tried for crimes against it.
The word appeasement is rarely used except in the context of Neville Chamberlain's deal with Hitler in 1938, but what about the present appeasement of Muslims in Britain? It is obviously impossible to genuinely respect an ideology that our reason rejects as superstition, let alone dangerous superstition; so what the motion that we should respect it actually means is that we should pretend to respect religion for the sake of political correctness. Thus, at the very least, the motion that I was debating in Oxford demands hypocrisy.
But hypocrisy is not the worst of it.
When the ideologies that we pretend to respect are allowed to indoctrinate children, some of whom may even grow up to be suicide bombers because of it, hypocrisy becomes complicity in the mental abuse of children, the oppression of women, and even incitement to terrorism. This has been exacerbated by our political representatives, for the sake of votes, setting up state-supported schools to promote indoctrination in a particular faith, though they themselves probably accept a different, incompatible set of superstitions.
We are told that Islam itself cannot be blamed for the terrorists' attacks on New York, Madrid, and London, followed by widespread carnage in retaliation for the publication of a few innocuous drawings. That is like saying that the horrors of the Inquisition had nothing to do with Christianity.
In the Gospels, Jesus consistently identifies righteousness with believing in him; and in the ages of faith the statement by Thomas Aquinas that "Unbelief is the greatest of sins" was incontrovertible. Hence, the Inquisition, the Crusades, and the Christian burning of witches, heretics, and Jews-the flames being fanned by Christian faith. This use of torture was not a case of bad people perverting a good religion; the persecution of skeptics follows logically from the Christian correlation of faith with salvation, not to mention the scary notion that God could punish the whole of society for the disbelief of a few.
Muhammad followed on from Jesus, and the Qur'an contains even more manic denunciations of disbelief than the New Testament. Moreover, Islam has failed to moderate its cruel practices to the extent that mainstream Christianity has done in the past couple of centuries.
The Taliban, Al Qaeda, and Iraq's Badr Corps (commanded by that country's Supreme Council for Islamic Revolution) are certainly extremist, but they are orthodox-deriving logically from the Qur'an, which denigrates women and tells believers to wage jihad against heretics and infidels. Moderate Muslims may explain it away as misinterpretation - but why, then, did Allah or his Prophet lapse into ambiguity? Even the two major Islamic sects, Shia and Sunni, are at each other's throats in Iraq and elsewhere.
Muslims, we are told, are sensitive and are really hurt when their religion is joked about. Don't they credit their supposed creator god with any sense of humor? Didn't he actually invent laughter? And is he too weak to withstand a joke without some humorless cleric rushing to his defense? Or is their own faith so weak that they fear its contamination? Let them heed the old playground retort: "Sticks and stones may break my bones, but words can never hurt me."
Claiming to be ultrasensitive and really hurt by mere words or pictures is, of course, a way of gaining privilege. Everyone else has to speak softly so as not to hurt you. It is argued that, since the common-law offense of blasphemy survives in Britain, though only for the protection of the doctrines of the Church of England, parity demands that the law be extended to protect other religions. But it is now practically a dead letter, and the best solution would clearly be to abolish it altogether, as, in fact, the Law Commission has recommended several times to succeeding governments, the ears of which are more deaf even than those of a person my age. But now the concept of blasphemy has been given an independent lease of life by renaming it "disrespect for religious feelings."
Our present government has even endeavored to criminalize such disrespect with another change of name, "incitement to religious hatred"; but, fortunately, ameliorating amendments to the relevant bill introduced in the House of Lords were finally accepted in the Commons-by just a single vote, when Blair himself was absent-on January 31 this year. But the attenuated bill then became law.
Of course, the law should protect people. In fact, that is basically what law is all about, and we have plenty of general laws for the protection of people, without special laws for the protection of ideas of a particular kind.
On February 20, Pope Benedict XVI called for mutual respect for all the world religions and their symbols  - though he failed to mention, of course, parallel respect for atheism.
Anyway, how can the pope sincerely respect Islam when it teaches that believers in the "blasphemous" Christian Trinity are destined to spend eternity in hell? Not to mention that the death sentence is often passed in Muslim countries, to this day, on anyone who converts from Islam to Christianity. The fatwa recently issued by Shia Grand Ayatollah Ali al-Sistani states not only that all homosexuals should be killed but that they should be killed in the "most severe way" possible. By comparison, Pope Benedict's homophobia is quite restrained.
Pressured by religious leaders sinking their differences in the common cause of authoritarianism, the Council of Europe is currently considering the introduction of legislation in the European Parliament and even the United Nations to enforce "respect for religious feelings" internationally. Insertion of the word “feelings” lends this tendentious goal a semblance of humane empathy. But religion cannot, in all conscience, be intellectually respected if honesty is to prevail over hypocrisy - and giving it false respect would not just be obsequious and dishonest, but it would actually allow superstitions of the Dark Ages to triumph, destroying the whole range of social and individual freedoms courageously won over the past few centuries.
So, for the sake of liberty as well as truth, we must resist the indefensible furtherance of hypocritical respect.
Far from being willing to moderate free speech by respect for religion, we should moderate respect for religion in favor of free speech.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét