Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2011
HUYỀN THOẠI VƯỜN ĐỊA ĐÀNG
Lịch sử nhân loại đã nhận ra cái hậu quả ghê gớm của huyền thoại "Gan Eden" kể chuyện Adam và Eva phạm tội. Chỉ vì dám ăn trái táo trị giá mấy chục cents (xu) mà cả loài người phải chết, đàn ông phải vất vả cực khổ mới kiếm được miếng ăn và đàn bà phải mang nặng đẻ đau mới sinh được đứa con của mình! Cái lỗi nhẹ đó của Adam đã đưa đến hậu quả là Con một của Thiên Chúa phải mất công xuống thế gian đầu thai làm người, phải chịu đánh đòn nhục nhã và chết trần truồng trên thập giá chỉ để "Chuộc tội tổ tông"? Nhưng cái chết thảm của Jesus cũng hóa thành vô ích vì tất cả cái hậu quả của tội tổ tông trên số phận của loài người vẫn còn nguyên vẹn: Con người vẫn phải chết, đàn ông vẫn phải vất vả kiếm ăn và đàn bà vẫn mang nặng đẻ đau như lúc Jesus chưa "cứu chuộc". Thật là xảo trá bịp bợm, Jesus chẳng cứu được ai, vậy tại sao lại cứ tôn vinh y là "Chúa Cứu Thế"? Khoa học khảo cổ đã chứng minh chuyện Vườn Địa Đàng chỉ là chuyện thần thoại bịa đặt, vậy làm gì có tội tổ tông thật đâu mà phải cứu chuộc? Ngay cả trường hợp chuyện Vườn Địa Đàng là thật chăng nữa thì hành vi của Adam cũng không phải là tội. Triết gia Baruch Spinoza (1632-1677) bậc thầy tư tưởng Tây Phương được xếp ngang hàng với Lão Tử của Đông Phương đã viết: "Ý muốn hay quyết định của Adam chẳng phải là xấu và cũng chẳng chống lại ý muốn của Chúa vì Chúa là nguyên nhân của điều đó... Chúa muốn kẻ ác hối hận tại sao Ngài cấm Adam ăn trái táo khi Ngài Phú cho ông ta ý muốn trái ngược?" (Adam’s will or decision was neither evil, properly speaking, contrary to God’s will, it follows that God can be its cause... God wants the wicked to repent, why did he forbid Adam to eat of the tree when he ordained the opposite – The Enlighten Minds by Stephen, p.142-143).
Một phần lớn cái trách nhiệm về tội ác của Kitô Giáo nói chung, của giáo hội Công Giáo nói riêng, có thể qui vào cho St. Augustine. Y là cha đẻ ra thuyết Thiên Chúa Ba Ngôi với tác phẩm "De Trinitate", Cha đẻ ra thuyết "Tội Tổ Tông" và thuyết "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội". Y xác lập thuyết thần quyền cho giáo hội để buộc mọi chính phủ thế quyền phải thần phục giáo hội bằng tác phẩm "De Civitas Dei". Augustine sinh tại Algeria năm 354 (chết năm 430, 76 tuổi). Y được coi là người sáng lập đạo Kitô đứng hàng thứ hai sau Saint Paul (Phao lồ) và là tác giả của toàn bộ hệ thống tư tưởng Tây Phương thời Trung Cổ. Năm 396, y làm giám mục địa phận Hippo tại Algeria. [Trong suốt 6 thế kỷ đầu Công Nguyên, toàn vùng Bắc Phi, Cận Đông và Âu Châu đều là các nước theo Kitô Giáo. Sự xuất hiện và bành trướng mau chóng của Hồi Giáo thời Trung Cổ đã biến toàn Bắc Phi, Cận Đông và Nam Âu Châu kéo tới Ấn Độ trở thành các nước Hồi Giáo. Sự kiện này đã chặn đứng âm mưu xâm lược toàn cầu bằng chiêu bài Công Giáo của Đế quốc La Mã.]
Augustine say mê nghiên cứu và viết sách suốt trong 34 năm. Công trình của Augustine thật khá vĩ đại, chỉ tiếc cái vĩ đại đó là ông ta đã xây dựng cả một tòa lâu đài đồ sộ trên nền tảng thần thoại Vườn Địa Đàng của Babylon!
Augustine giải thích mọi đau khổ của loài người đều do tội lỗi nguyên thủy của Adam-Eva, gọi là tội tổ tông (the Origin Sin). Tội này di truyền cho con cháu muôn đời do sự giao cấu của cha mẹ. Giao cấu là tội lỗi. (God had condemned humanity to an eternal damnation simply because of Adam’s sin. The inherited guilt was passed on to all his descendants through the sexual act which was polluted by what is called concupiscence). Dựa vào lý luận này, Augustine viết thêm cuốn On Female Dress nhục mạ phụ nữ và tạo ra hệ thống nam tu sĩ của giáo hội Công Giáo và việc phụ nữ bị từ chối phong chức linh mục.
Augustin gọi mỗi phụ nữ là một Eva, đồng lõa với ma quỉ, xúi giục đàn ông chống lại Thiên Chúa. Vì tội lỗi xấu xa của phụ nữ mà Con Thiên Chúa phải chết. Đàn bà là kẻ đào ngũ khỏi luật của Chúa. Đàn bà phá hoại đàn ông là hình ảnh của Thiên Chúa... (You are each an Eve. You are the devil’s gateway. You are the unsealer of that forbidden tree. You are the first deserter of the divine law. You so carelessly destroyed man, God’s image. On account of your desertion, even the Son of God had to die). Tuy nhiên, chỉ có một phụ nữ duy nhất trên thế gian không bị Augustine nguyền rủa là Đức Mẹ Maria. Augustine lý luận: Đức Mẹ không giao cấu với Joseph. Đức Mẹ sinh ra Chúa Jesus vẫn còn đồng trinh nên Mẹ là đấng Vô Nhiễm Nguyên tội (The Immaculate Conception).
Những lý luận trên của Augustine thống trị linh hồn Âu Châu suốt trong hơn 1000 năm! Mãi đến giữa thế kỷ 16, bỗng nhiên xảy ra một cuộc bút chiến giữa hai phe thần học Công Giáo. Phe cấp tiến cho rằng Chúa Jesus cũng mắc tội tổ tông vì bà Maria sinh ra do sự giao cấu của cha mẹ, Jesus chỉ được miễn 50% vì cha là Đức Chúa Tinh Thần. Cuộc bút chiến kéo dài lai rai trong 30 năm và bị tòa án Dị Giáo đàn áp dữ dội nên không thể bùng lên được. Biết bao sinh mạng đã phải lên dàn hỏa vì cái chuyện lẩm cẩm này! Đó là cái gọi là "nền văn minh Kitô Giáo" (The Christian civilization).
Đến giữa thế kỷ 19, khi nền dân chủ Tây Phương đã khá lớn mạnh và uy quyền của Vatican đã bị giảm sút, cuộc bút chiến về cái trinh của Đức Mẹ lại bùng lên. Giáo Hoàng Piô IX dùng mọi biện pháp dập tắt cuộc bút chiến. Đến năm 1854, y công bố tín điều "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội". Để cho giáo dân thêm tin tưởng vào tín điều này, giáo hoàng âm mưu với giáo hội Pháp phịa ra vụ Đức Mẹ hiện ra ở hang núi hẻo lánh Massabielle thuộc tỉnh Lourdes (Tây Nam nước Pháp). Đức Mẹ tiếp xúc với một cô gái quê tên Bernadette và Mẹ tự xưng là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội (I am The Immaculate Conception). Nhiều giáo dân tiến bộ không tin phép lạ ở Lourdes (Lộ Đức) và đặt vấn đề về thẩm quyền tuyên bố tín điều của giáo hoàng. Do đó, giáo hoàng Pio IX phải triệu tập Công Đồng Vatican I vào năm 1869. Kết quả Công Đồng I chấp thuận tín điều "Giáo Hoàng Bất Khả Ngộ" [Không thể sai lầm.]
(The dogma of Papal Infallibility). Nhờ có tín điều này, năm 1950, Giáo Hoàng Pio XII công bố thêm một điều nữa về Đức Mẹ. Đó là Tín điều "Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời" còn gọi là "Đức Mẹ Mông Triệu (The Assumption).
Tổng giáo phận Sài Gòn sáng tác một bài kinh để mừng kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (Nhựt khóa trang 499) nghe rất cải lương như sau: "Thung thăng chân bước thang mây, tay chắp mặt vui áo tỏa. Hớn hở gót nương cung nguyệt. Khí thanh gió mát trời quang. Xuân Thu bà đã quá sáu tuần về chầu Chúa bởi lòng kính mến. Môn đệ Chúa họp gần đủ mặt Ba Ngôi thảy yêu đương, xưa đời giữ phận khiêm nhường xưng mình là tôi tớ Chúa. Nay rời khỏi thế gian nên vì cao trọng. Bà đáng chức Nữ Vương. Xưa, Ngôi Hai ngự trong lòng Bà dư chín tháng ơn thiêng gồm đủ. Rày Chúa Cả thưởng công Mẹ quyền cai trị chín trời, chức đặt chủ bầu bốn biển. Sang quá đỗi sang. Nay xin Ơn Thánh hằng giúp con, sau nguyện đặng lên trời với Mẹ. Amen".
Để củng cố và nhắc nhở các tín đồ Công Giáo về các tín điều mới này về Đức Mẹ cũng như tín điều "Giáo Hoàng không thể sai lầm.", Vatican ra lệnh cho các giáo hội phải xây thêm trong khuôn viên nhà thờ một hang đá Lộ Đức. Lệnh của Tòa Thánh ban ra chỉ được vài nước Âu Châu như Pháp, Ý, Tây Ban Nha thi hành còn toàn Bắc Mỹ đa số theo phe cấp tiến không chịu tuân lệnh. Do đó, ta thấy ở Mỹ và Canada gần như không có nhà thờ nào xây hang đá Lộ Đức. Ở Việt Nam thì ngược lại, nhà thờ nào cũng xây thêm hang đá Lộ Đức. Đó là một bằng chứng cụ thể về tinh thần nô lệ của giáo hội Công Giáo Việt Nam. Bất cứ một lệnh nào được ban ra từ Vatican cũng đều được các tu sĩ Việt Nam tuân hành răm rắp!
Tuyệt đại đa số giáo dân trình độ tâm linh quá thấp đâu ngờ khi họ xếp hàng đi xưng tội, chính họ còn ít tội hơn kẻ ngồi ở phía sau tòa giải tội.
Hầu hết các tu sĩ là những kẻ đại gian ác ngụy trang dưới những lớp áo đen, áo đỏ, áo trắng đóng vai đạo đức giả để phỉnh gạt tín đồ. Bề ngoài, họ làm ra vẻ thuận thảo với nhau, thật sự bên trong nội bộ, họ ganh tị tranh đua nhau và sẵn sàng hạ thủ nhau để tranh quyền đoạt thế. Họ dùng đủ thủ đoạn để bòn rút tiền bạc xương máu của giáo dân, để xây nhà thờ nguy nga đồ sộ chỉ cốt để họ được vênh vang với đời . [Một số tu sĩ của tôn giáo khác cũng thế.]
Mái nhà thờ của họ càng lớn rộng bao nhiêu, càng che khuất ánh sáng mặt trời chân lý bấy nhiêu. Các bức tường của nhà thờ càng cao bao nhiêu càng ngăn cách giữa con người với nhau bấy nhiêu. Giáo sĩ là những con ký sinh trùng vừa ăn bám, vừa phá hoại xã hội. Họ tội lỗi cùng mình lại nắm quyền tha tội cho đám tín đồ vô tội hoặc ít tội hơn họ. Họ thực sự là một bọn cướp nguy hiểm hơn bọn cướp thường vì những kẻ cướp thường đều bị luật pháp trừng trị. Trái lại, bọn cướp đội lốt giáo sĩ lại được giáo dân tôn kính, đi lại tự do vênh váo và được xã hội tâng bốc là "những vị lãnh đạo tinh thần". Tất cả các tệ nạn này đều xuất phát từ sự thiếu hiểu biết của đại đa số giáo dân. Do vậy, việc giáo dục khai sáng tâm linh là vô cùng cần thiết để cứu nước và bảo vệ nền văn hóa nhân bản rất cao đẹp của dân tộc ta mà tuyệt đối đa số giáo dân không hề biết tới.
Trong giáo lý Công Giáo có rất nhiều điều sơ hở của những kẻ sáng lập đạo có thể khiến cho những người có óc tò mò tìm hiểu dễ dàng phát giác ra sự lừa bịp dối trá của giáo hội. Nhưng vì trình độ thấp kém của giáo dân, giáo hội vẫn tìm cách che lấp các sơ hở đó của giáo lý và qua mặt giáo dân dễ dàng. Khi tôi còn rất nhỏ, tôi thường được cô tôi là một dì phước dạy giáo lý. Bài giáo lý đầu tiên trong đời tôi được cô tôi hỏi đi hỏi lại rất nhiều lần. Bà biết tôi đã thuộc như cháo nhưng bà vẫn hỏi để có cớ cho tôi quà. Mỗi lần có dịp đến thăm gia đình tôi, bà thường ôm tôi vào lòng âu yếm hỏi và tôi đáp như máy:
- Cháu con ai?
- Con Đức Chúa Giời.
- Cháu ai?
- Cháu ông Adong.
- Dòng dõi ai?
- Dòng dõi vua David.
Cả tới nửa thế kỷ sau, tôi không hề thắc mắc về những điều đó, nhưng rồi sau đó, tôi mới thấy cái vai trò quan trọng của vua David trong giáo lý Công Giáo. Đó là vì dân Do Thái quan niệm Chúa Cứu Thế (Christ-Messiah) là "vua David mới" phải là người thuộc dòng dõi của vua David, cũng tương tự như người Babylon quan niệm Chúa Cứu Thế (Savior of People) phải là con của vua Nimrod. Do đó, kẻ lập đạo Kitô phải viết sách làm sao để người đọc tin rằng Jesus là người thuộc dòng dõi của David thì Jesus mới có thể là Messiah (Kitô) đã được Cựu Ước Do Thái tiên tri. Tân Ước kể tiểu sử Jesus được viết trong thế kỷ I đã chứng minh mối tình tội lỗi của David với bà Bathseba đã sinh ra tổ tiên nhiều đời của Joseph là cha của Jesus. Do đó, Jesus đã thuộc dòng dõi vua David bởi cha mình là Joseph và đích thị là Chúa Kitô theo đúng Cựu Ước. Đến thế kỷ 3 và 4, lý thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi mới thành hình. Bọn lập đạo Công Giáo (Hoàng đế Constantine, Irenacuss, giám mục địa phận Lyon ở Pháp và Augustine là tác giả Kinh Tin Kính) chủ trương biến Joseph thành cha nuôi và Đức Mẹ phải là đồng trinh, cha của Jesus phải là đức Chúa Thánh Thần. Nhưng họ đã quên khuấy một điều là Tân Ước và Cựu Ước không có một điều nào nói về Đức Mẹ Maria thuộc dòng dõi của vua David. Thành ra, nếu Jesus là con của Đức Chúa Thánh Thần và bà Maria đồng trinh thì Jesus không thể là Kitô vì không thuộc dòng dõi vua David! Ngược lại, nếu chấp nhận Jesus thuộc dòng dõi vua David do cha mình là Joseph thì Đức Mẹ không còn đồng trinh! Để gỡ thế bí này, Vatican đã phịa ra những bài kinh cầu Đức Bà, kinh cầu Ông Thánh Gioakim và kinh cầu bà thánh Anna (là cha mẹ của bà Maria) để che lấp sơ hở nói trên của kẻ lập đạo Công Giáo.
- Kinh cầu Đức Bà có câu "Đức Bà là lâu đài David".
- Kinh cầu Ông Thánh Gioakim (Toàn niên Kinh Nguyện Bùi Chu do cơ sở Dân Chúa xuất bản. P.O Box 1419 Gretna LA 70053. Đại diện là LM Việt Châu – trang 189): "Lạy ông Thánh Gioakim là đấng rất sang trọng về dòng dõi vua David. Đức Chúa Trời đã chọn mà ban mọi sự lành cho cả và loài người ta vì đã dùng Người cho được làm nên những sự mầu nhiệm Đức Chúa Trời truyền ở thế gian này..."
- Kinh cầu Bà Thánh Anna (Toàn niên kinh Nguyện tr. 212): "Lạy bà Thánh Anna là mẹ Nữ Vương, Bà làm sáng thiên hạ vì sinh được con thanh sạch, sáng láng hơn mặt trời mặt trăng. Bà là đấng sang trọng bởi dòng vua David..."
Từ nhỏ đi nhà thờ đọc kinh cầu Đức Bà, tôi vẫn tưởng tượng cái "Lâu Đài David" chắc phải là cái gì thánh thiện cao cả. Nay tôi Lấy Sách Cựu Ước ra đọc để tìm hiểu cái lâu đài này như thế nào. Té ra Lâu Đài David là Harems chứa cả ngàn cung nữ để phụng sự cái tật dâm dật vô độ của David. Khi David về già, vẫn ham chơi với các thiếu nữ trẻ măng. Tôi ngạc nhiên thấy cái gọi là Kinh Thánh Cựu Ước mô tả các cuộc truy hoan của nhà vua thật chi tiết như một dâm thư: "Bây giờ vua David đã già và bị bệnh nhiều năm, đắp mền cho Người bao nhiêu cũng không ấm. Các đầy tớ mang đến cho Người một cô gái trẻ đứng trước mặt Người và hãy để cho cô ta kích thích làm cho Người khoái, sau đó đặt cô ta nằm trong lòng Người thì Người mới ấm..." (Now king David was old and stricken in many years. They covered him with clothes but he got no heat. Wherefore, the servants sought for the king a young girl and let her stand before the king and let her cherish him and let her lie in his bosom that the king may get heat – The Third Book of the King I:1-12).
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét